Skip to content Skip to sidebar Skip to footer

Nê-hê-mi: kính Chúa – yêu người (phần 1)

Trong thời các vua Giu-đa, dưới sự cai trị của nhiều vị vua gian ác, bất kính với Đức Chúa Trời, dân sự đi trong con đường tội lỗi ác tệ nghịch cùng Chúa (Nê-hê-mi 1:6-7; II Sử ký 36:14). Chúa đã sai các nhà tiên tri cảnh báo nhắc nhở nhưng họ cứng lòng không nghe (II Sử ký 36:15-16). Chúa nhân từ chờ đợi và cho cơ hội quay đầu nhưng họ cứ dùi mài trong con đường gian ác, bội nghịch. Cuối cùng, Chúa dùng Ba-by-lôn như ngọn roi để sửa phạt. Dân Giu-đa phải bị lưu đày tại Ba-by-lôn vào năm 586 T.C (II Sử ký 36:17). Về sau, Chúa thương xót cho họ từng bước trở về quê hương dưới sự dẫn dắt của Xô-rô-ba-bên vào năm 516 T.C (E-xơ-ra 2:2), E-xơ-ra vào khoảng 57 năm sau đó (458 T.C) và Nê-hê-mi vào khoảng năm 444 T.C.

Ông Nê-hê-mi là con của Ha-ca-lia, người Giu-đa, sống và làm việc ở tại kinh đô Su-sơ (Nê-hê-mi 1:1-3; 2:3,5). Ông đã được sanh ra và lớn lên tại Ba-tư (trước là Ba-by-lôn, nơi mà dân Giu-đa bị lưu đày, đã sụp đổ vào khoảng 540 T.C bởi đế quốc Mê-đi Ba-tư). Tên của Nê-hê-mi có nghĩa là “Chúa đã yên ủi”. Ông làm quan tửu chánh trong đời vua Ạt-ta-xét-xe của Ba-tư (cai trị từ 464-423 T.C), một vị trí quan trọng vì phải nếm trước mọi loại rượu để đảm bảo an toàn trước khi dâng cho vua uống (Nê-hê-mi 1:11).

Nhắc đến ông Nê-hê-mi luôn là sự khích lệ lớn cho Cơ Đốc Nhân ngày nay trong nhiều khía cạnh của cuộc sống. Điều nổi bật hơn hết về ông đó là một người yêu kính Chúa và hết lòng với quê hương và dân tộc.

1.
 Kính Chúa: ông Nê-hê-mi không để mình bị đồng hóa với người thế gian
Dù là người Giu-đa, nhưng ông Nê-hê-mi đã được sinh ra và lớn lên tại Ba-tư, đất nước thờ hình tượng. Bên cạnh đó, ông lại đang phục vụ cho một vị vua ngoại giáo không tôn thờ Đức Chúa Trời. Trong bối cảnh đó dễ lắm ông Nê-hê-mi sẽ bị tiêm nhiễm cùng thỏa hiệp với lối sống và việc thờ hình tượng của người thế gian. Tuy nhiên, qua những gì được ký thuật trong sách Nê-hê-mi, chúng ta nhận thấy ông Nê-hê-mi là một người có đời sống rất tin kính Chúa (Nê-hê-mi 1:4-11; 2:4; 4:4-5,9,14; 5:15; 6:11). Ông không để mình bị đồng hóa với lối sống của người thế gian tại Ba-tư nhưng hoàn toàn khác biệt. Ông nhận biết Chúa là Đấng cực đại và đáng kinh nên hết lòng tôn thờ Ngài. Chắc chắn từ nhỏ ông đã được nuôi dạy lòng yêu kính Chúa trong gia đình và đức tin đó lớn lên bền chặt mỗi ngày. Dầu Kinh Thánh không ghi nhận nhưng có thể ông cũng đã từng đối diện với nhiều khó khăn, bắt bớ và cám dỗ lìa bỏ Chúa giống như Đa-ni-ên và ba bạn Hê-bơ-rơ khi sống giữa những người vô tín. Đa-ni-ên và ba bạn Hê-bơ-rơ là những người bị lưu đày từ Giu-đa sang Ba-by-lôn. Họ là số ít trong những người Giu-đa được chọn để huấn luyện hầu sau ba năm sẽ phục vụ triều đình Ba-by-lôn (Đa-ni-ên 1:3-5). Bấy giờ, họ đã đối diện rất nhiều khó khăn liên quan đến niềm tin khi sống giữa thế lực ngoại giáo. Họ đứng trước cám dỗ phải thỏa hiệp với thần tượng khi được ban cho đồ ngon vua ăn và rượu vua uống vốn đã được cúng tế (Đa-ni-ên 1:5-6). Kế đến, ba bạn Hê-bơ-rơ đứng trước thử thách phải quỳ lạy pho tượng vàng mà vua Nê-bu-cát-nết-sa đã dựng mà nếu không sẽ bị quăng vào lò lửa hực (Đa-ni-ên 3:1,6). Đến lượt Đa-ni-ên thì bị những kẻ ganh ghét đố kỵ mưu toan hãm hại. Họ nhằm vào đời sống cầu nguyện của ông để lập mưu hầu quăng ông vào hang sử tử (Đa-ni-ên 6:4-17). Ông Nê-hê-mi sống trong thời điểm khác nhưng có lẽ cũng phải đối diện nhiều cám dỗ và thách thức như vậy vì Lời Chúa cho biết “Vả lại, hết thảy mọi người muốn sống cách nhân đức trong Đức Chúa Giê-xu Christ, thì sẽ bị bắt bớ” (II Ti-mô-thê 3:12). Thế gian đầy lòng ghen ghét chắc chắn luôn muốn lôi kéo con dân Chúa lìa xa Ngài. Nhưng sau hết, chúng ta thấy rõ ông Nê-hê-mi dù sống giữa những người bất kính nhưng luôn giữ được lòng kính yêu Chúa và hoàn toàn hướng về Chúa trong mọi sự.

Xin Chúa giúp để mỗi chúng ta cũng giữ được lòng tin kính Chúa như Nê-hê-mi trong đời sống của mình dù ở đâu, bất cứ lúc nào và trong mọi cảnh ngộ nào. Chúng ta cũng đang sống giữa những con người vô tín. Chỗ làm, chỗ học, chỗ vui chơi, xung quanh nhà,… dường như gồm toàn những người không tin Chúa. Họ sống trong sự tối tăm với lối sống sai trật không đẹp lòng Chúa. Chúa muốn chúng ta “Đừng làm theo đời này” (Rô-ma 12:2) nhưng “Sự sáng các ngươi hãy soi trước mặt người ta như vậy, đặng họ thấy những việc lành của các ngươi, và ngợi khen Cha các ngươi ở trên trời.” (Ma-thi-ơ 5:16). Chúng ta nhờ ơn Chúa để mình không bị đồng hóa bởi lối sống của người đời nhưng qua nếp sống tin kính Chúa sẽ cảm hóa họ quay về bên Chúa.

2.
 Yêu người: Ông Nê-hê-mi quan tâm và hành động vì dân tộc
Mặc dù sống trong sự cao sang, quyền quý trong kinh đô Su-sơ của đế quốc Ba-tư nhưng lòng Nê-hê-mi luôn hướng về dân sự của Chúa và thành Giê-ru-sa-lem, quê hương của tổ phụ ông. Đây là điều rất đặc biệt ở Nê-hê-mi bởi vì tại thời điểm của ông sống và làm việc (445 T.C) cách xa thời điểm dân sự bị lưu đày hàng thế kỷ (586 T.C). Với khoảng thời gian dài như vậy mà lại đang sống ổn định ở một nơi khác thì người ta thường ít để ý đến quê hương xứ sở nữa mà sẽ tập trung cho sự nghiệp bản thân và gia đình mình. Tuy nhiên, Nê-hê-mi lại đầy lòng trắc ẩn đối với quê hương của tổ phụ mình. Ông luôn muốn nghe về tình trạng nơi quê hương. Ông cầu nguyện cho họ mỗi ngày để Chúa thương xót thăm viếng và phục hồi dân sự của Chúa. Ông vững tin vào sự nhân từ của Chúa sẽ tha thứ cho những ai trở lại cùng Ngài (Nê-hê-mi 1:9). Ông dốc lòng kiêng ăn cầu nguyện ngay khi biết được tình trạng khốn khổ của dân sót và vách thành Giê-ru-sa-lem (Nê-hê-mi 1:3-4). Không dừng lại ở đó, lòng yêu mến dân tộc đã thôi thúc Nê-hê-mi phải hành động ngay để cứu giúp anh em của mình. Ông sẵn lòng từ bỏ cuộc sống xa hoa phú quý nơi Ba-tư và xin vua cho mình trở về quê hương để giúp đỡ dân tộc trong hoàn cảnh khốn khó đó.

Chúng ta sống trong bối cảnh khác Nê-hê-mi nhưng xung quanh chúng ta cũng đầy những người chưa biết về Chúa. Họ sống trong sự tối tăm, đau khổ và thất vọng. Họ sẽ đi về đâu nếu cứ ở trong con đường lầm lạc đó. Là những người thuộc về Chúa chúng ta biết rõ. Xin Chúa cho mỗi chúng ta có lòng cưu mang đối với những linh hồn tội nhân, quan tâm cầu nguyện để Chúa thăm viếng họ và nhanh chóng nắm bắt mọi cơ hội để làm chứng về Chúa cho họ. Lời Chúa khẳng định “Vì ai kêu cầu danh Chúa thì sẽ được cứu. Nhưng họ chưa tin Ngài thì kêu cầu sao được? Chưa nghe nói về Ngài thì làm thể nào mà tin? Nếu chẳng ai rao giảng, thì nghe làm sao?” (Rô-ma 10:13-14). Như vậy, để người ta có thể biết Chúa và kêu cầu Ngài thì đòi hỏi phải có người chịu ra đi. Ai sẽ là người ra đi? Đó là trách nhiệm Chúa giao cho tất cả những người tin Chúa, không dành riêng cho ai. Nếu có cơ hội mà không nói thì mỗi người sẽ phải chịu trách nhiệm trước mặt Chúa vì Lời Chúa chép rằng “Khi ta nói với kẻ dữ rằng: Mầy chắc sẽ chết! nếu ngươi không răn bảo nó, không nói với nó đặng khuyên nó từ bỏ đường xấu để cứu mạng mình, thì người dữ đó sẽ chết trong tội lỗi nó; nhưng ta sẽ đòi huyết nó nơi tay ngươi.” (Ê-xê-chi-ên 3:18; 33:8-9)

Xin Chúa đặt để trong mỗi chúng ta lòng yêu thương người để sốt sắng rao truyền Tin Lành của Chúa hầu đem nhiều linh hồn tội nhân trở về cùng Chúa. A-men

(Nhóm biên tập Chuyên mục Nhân vật Kinh Thánh)

Là Hội Thánh Tin Lành đầu tiên tại Sài Gòn, trực thuộc Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, được thành lập năm 1920.
Sứ mệnh Hội Thánh:
“TẤT CẢ VÌ NGƯỜI CHƯA ĐƯỢC CỨU”

© 2024. Bản quyền thuộc về Hội Thánh Tin Lành Sài Gòn