Skip to content Skip to sidebar Skip to footer

Quê hương của tôi

Trong thập niên 1910-1920, ông bà cố của tôi khi còn là cặp vợ chồng trẻ, sau khi cưới thì sinh đứa con trai đầu lòng. Đứa con bị bệnh, ông bà tìm thầy cúng tại quê hầu cứu chữa cho con. Dù cố gắng thể nào, đứa con vẫn chết. Khi bà cố sinh đứa con thứ hai, cũng lo lắng con trẻ sẽ bị bệnh, lần này ông bà mời thầy cúng về nhà tụng kinh, cầu an. Thật là thất vọng, đứa con thứ hai khi chưa được đầy tháng thì cũng qua đời do bị bệnh. Rồi đứa con thứ ba ra đời, cũng mắc căn bệnh như hai đứa con trước, lần này ông bà rất hoang mang và lo sợ nhưng chẳng biết làm gì hơn là đặt niềm hy vọng vào những thầy cúng nổi tiếng nhất tại vùng đất miền Trung.

Trên đường đi tìm thầy để tụng niệm cho sự sống của con, hầu nối dõi gia tộc. Lúc đó ông cố tôi gặp ba Cơ Đốc nhân. Khi ba người này tìm hiểu và biết sự lo lắng của người cha thì xin phép để họ đến nhà để cầu nguyện giúp. Ông cố tôi nói rằng: “Nếu lời cầu nguyện của quí vị làm cho con tôi được lành và sống, thì tôi sẽ theo quí vị.”

Thật may là đứa con thứ ba được sống khoẻ và dần hồi lớn lên như bao đứa trẻ khác. Như lời đã nói, ông bà cố tôi ăn năn tội lỗi của mình khi học biết về ơn cứu rỗi và tha thứ tội của Ông Trời (Kinh Thánh gọi là Đức Chúa Trời). Ông bà là một trong những hạt giống Tin Lành đầu tiên tại Hội Thánh Khánh Bình, Quế Sơn, Quảng Nam. Rồi ông bà tiếp tục sanh thêm 8 người con nữa, nuôi dạy con cái mình theo con đường tin kính Chúa.

Tất cả các con, dâu, rể, cháu, chắt, chít của ông bà cố tôi khoảng 300 người đều biết Chúa và đặt niềm tin nơi Ngài, trừ người con thứ sáu. Trong số đó có một người con và một người cháu nội được Chúa kêu gọi và phụng sự Ngài trọn thời gian. Hiện nay chỉ còn hai người con gái út là còn sống, cùng với gia đình thờ phượng Chúa tại Hội Thánh Tin Lành An Trung, thành phố Đà Nẵng.

Thật là phước hạnh khi tôi được sinh ra và nuôi dưỡng trong gia đình Cơ Đốc (ông ngoại tôi là đứa con thứ tư của ông bà cố). Tôi đã biết Chúa rất yêu tôi và tôi mời Ngài làm chủ cuộc đời mình vào mùa hè năm 1975. Khi đến tuổi cập kê, tôi thầm nguyện xin Chúa cho con có một người chồng thật sự tin kính Ngài.

Tôi làm nghề may, thường xuyên tăng ca. Lúc này tôi có quen với một anh tín hữu. Anh không ủng hộ khi tôi xin nghỉ làm trong ngày Chúa nhật vì anh cho rằng kinh tế gia đình tôi còn rất chật vật. Anh không vui nếu tôi không làm tăng ca. Nhờ Lời Chúa đã trồng trong tôi từ lúc còn bé, tôi biết đây không phải là người chồng mà Chúa sẽ chọn cho hôn nhân mình. Tôi chia tay anh và chờ đợi vào sự dẫn dắt của Ngài dù lúc đó tôi (36 tuổi) cũng nôn nao muốn lập gia đình vì các bạn cùng lứa tuổi của tôi đã có con 14-15 tuổi rồi. Lòng tôi được khích lệ và chờ đợi ý của Chúa qua câu Thánh Kinh Thi thiên 25:12 “Ai là người kính sợ Đức Giê-hô-va? Ngài sẽ chỉ dạy cho người ấy con đường mình phải chọn.”

Kế hoạch của Chúa cho hôn nhân của tôi thì thật là tốt lành, ngoài sự cầu xin và suy nghĩ của tôi. Vào năm 1999, tôi được một thầy Truyền đạo giới thiệu một ông chấp sự hơi đứng tuổi – tên là Mai Văn Nhiễu. Chúng tôi làm quen, tìm hiểu rồi sau đó cưới nhau trong sự ban phước của Đức Chúa Trời Ba Ngôi cùng với lời chúc mừng của nhiều tín hữu. Lúc đó ông làm trưởng ban của Ban Cầu Nguyện tại Hội Thánh Tin Lành Sài Gòn. Chúa ban cho vợ chồng của chúng tôi ba đứa con kháu khỉnh, khoẻ mạnh. Chúng tôi không ngớt cảm ơn Ngài và chẳng chậm trễ trong sự nguyện cầu, phục vụ nhà Ngài. Các con của chúng tôi được học Lời Chúa từ lúc còn ấu nhi. Hiện nay các con sinh hoạt trong Ban Thiếu niên và Ban Thanh niên.

Nhờ vào sự cầu thay của ông bà và cha mẹ, trong lòng tôi luôn khát khao được ở trong nhà của Đức Giê-hô-va trọn đời, được Chúa chiếm hữu, bao phủ và gìn giữ. Cho nên vợ chồng chúng tôi chú tâm vào đời sống nguyện cầu, trải nghiệm ơn của Chúa qua bài học về sự khẩn nguyện. Vì nếu không bởi sự dẫn dắt, gìn giữ của Chúa thì cuộc sống chúng tôi khó tránh khỏi những cạm bẫy, hào nhoáng – thu hút chúng tôi vào con đường tội lỗi, e rằng xa cách Chúa mà không biết. Đẹp ý Chúa, Ngài đón chồng tôi về trong Nước của Ngài vào tháng 11 năm 2020. Chồng tôi tuy chỉ tạm chia tay gia đình, nhưng anh đã để lại một gương tốt: “Không thể trải qua một ngày mà không tương giao với Chúa”.

Hiện giờ các con của tôi đang trong tuổi đi học, đi làm. Điều mà tôi đang làm cho các con của tôi là luôn cầu nguyện với Chúa cho chúng để các con ở trong sự gìn giữ, ban ơn của Chúa, có mối liên lệ cá nhân với Ngài. Luôn dặn dò và khích lệ các con phải trung tín thờ phượng Chúa, yêu mến Ngài trọn lòng. Chúng ta đã thuộc về Chúa thì phải bước đi trong sự sáng, trong sự dẫn dắt và tể trị của Ngài. Sống và làm theo Lời Chúa dạy trọn đời để tỏ lòng biết ơn về sự cứu rỗi của Chúa cho chính cuộc đời mình.

Quả thật, là Cơ Đốc nhân, còn gì hạnh phước hơn khi nhìn thấy con cái và hậu tự sẽ được ở trong ràn chiên của Ngài. Lòng tôi dâng lời cảm tạ và biết ơn Chúa khi được sinh hoạt tại Hội Thánh Tin Lành Sài Gòn và lớn lên trong đức tin kể từ năm 1999 cho đến nay.

Cảm tạ ơn Chúa thật nhiều khi nhìn lại thời gian đã trôi qua, năng lực từ nơi Chúa đã giúp tôi và gia đình vượt qua những “cơn sóng trần gian” thật lạ lùng. Do vậy, tôi luôn bám chặt nơi lời hứa của Chúa, hướng đến một tương lai đẹp xinh, vì biết rõ mình không thuộc về trần gian này, như đã chép trong 1 Phi-e-rơ 2:9 “Nhưng anh em là dòng giống được lựa chọn, là chức thầy tế lễ nhà vua, là dân thánh là dân thuộc về Đức Chúa Trời.”

Chúa ơi, xin cho hành trình đức tin của chúng con cứ bươn theo sự ở đằng trước, nhắm mục đích mà chạy để giựt giải về sự kêu gọi ở nơi Thiên quốc vì:

“Trần thế chẳng phải quê hương, chính tôi đây thân lữ hành

Nhà Cha trên nơi thiên quốc chất chứa bao châu báu tôi

Sứ thánh hát xướng tưng bừng xuống lên trên thang chờ mong.

Lòng tôi còn gì vương vấn với thế gian ô dơ này.”

Muốn thật hết lòng!

Lời làm chứng của cô Nguyễn Thị Thúy Hoài, tín hữu HTTL Sài Gòn

Là Hội Thánh Tin Lành đầu tiên tại Sài Gòn, trực thuộc Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, được thành lập năm 1920.
Sứ mệnh Hội Thánh:
“TẤT CẢ VÌ NGƯỜI CHƯA ĐƯỢC CỨU”

© 2024. Bản quyền thuộc về Hội Thánh Tin Lành Sài Gòn