Trong dòng lịch sử của Hội Thánh đầu tiên, Đức Chúa Trời đã dùng nhiều con người khác nhau góp phần vào sự hình thành và lớn lên của cộng đồng Cơ Đốc non trẻ. Trong số những nhân vật này có ông A-bô-lô (Apollos, hay Apollonios, theo thủ bản Codex D), một người giảng Phúc Âm đã có ảnh hưởng đáng kể trong cộng đồng Cơ Đốc thời kỳ đầu. Dù ông chỉ được đề cập đến trong vài phân đoạn Kinh Thánh, nhưng tầm ảnh hưởng và những bài học từ con người và chức vụ của ông thật đáng được xem xét và học hỏi.
I. Ông A-bô-lô là ai?
Chúng ta gặp ông A-bô-lô lần đầu trong Công vụ 18 và 19:
“Bấy giờ có một người Giu-đa tên là A-bô-lô, quê tại thành A-léc-xan-tri, là tay khéo nói và hiểu Kinh thánh, đến thành Ê-phê-sô. Người đã học đạo Chúa; nên lấy lòng rất sốt sắng mà giảng và dạy kỹ càng những điều về Đức Chúa Jêsus, dẫu người chỉ biết phép báp-têm của Giăng mà thôi. Vậy, người khởi sự giảng cách dạn dĩ trong nhà hội. Bê-rít-sin và A-qui-la nghe giảng, bèn đem người về với mình, giải bày đạo Đức Chúa Trời cho càng kỹ lưỡng hơn nữa. Người toan sang xứ A-chai, thì anh em giục lòng cho và viết thơ gởi dặn môn đồ phải tiếp đãi người tử tế. Khi tới rồi, người được nhờ ơn Đức Chúa Trời mà bổ ích cho kẻ đã tin theo. Vì người hết sức bẻ bác người Giu-đa giữa thiên hạ, lấy Kinh thánh mà bày tỏ rằng Đức Chúa Jêsus là Đấng Christ.
Trong khi A-bô-lô ở thành Cô-rinh-tô, Phao-lô đã đi khắp những miền trên, rồi xuống thành Ê-phê-sô…” (Công 18:24-19:1)
Thông tin từ trước giả Lu-ca cho chúng ta biết thứ nhất, ông A-bô-lô xuất thân từ Alexandria. Đó là một thành phố Bắc Phi nổi tiếng với di sản trí tuệ và văn hóa của Ai Cập cổ đại, một trung tâm học thuật hàng đầu về tư tưởng Hy Lạp và triết học Plato của Hy Lạp. Nơi đây cũng có một thư viện rất đồ sộ.
Thứ hai, A-bô-lô có tài hùng biện, có lẽ do năng khiếu và đã được đào tạo. Ông đồng thời với và thậm chí có thể là bạn đồng môn của Philo, một nhà triết học gốc Do Thái nổi tiếng tại Alexandria. Chúng ta chỉ có thể suy đoán về mối liên hệ về phương diện tư tưởng của ông ở đó.
Thứ ba, ông thông hiểu Kinh Thánh (Cựu Ước) và có lòng sốt sắng giảng dạy về Chúa Jêsus cách dạn dĩ trong các nhà hội. Lu-ca cho biết ông đã học “đạo Chúa” hay đã được “dạy lời Chúa tại quê hương mình” (Công 18:25, Codex D), giảng và dạy kỹ càng về Đức Chúa Jêsus dù chỉ biết phép Báp-têm của Giăng (về sự ăn năn) mà thôi. Những thông tin này không chứng minh rằng Cơ Đốc giáo đã đến Alexandria vào những năm 50 S.C. Cụm từ “lời Chúa” có lẽ nói đến bản dịch LXX, chứ không phải Phúc Âm Cơ Đốc. Khả năng ông đã tiếp xúc với Giăng Báp-tít cũng rất mong manh. Rất có thể ông đã tiếp xúc với một số môn đệ của Giăng Báp-tít hoặc tiếp nhận sự dạy dỗ của Giăng Báp-tít từ những nguồn tin khác trong khoảng thời gian từ 25–30 S.C. A-bô-lô cũng đã “giảng dạy kỹ càng về Chúa Jêsus” (18:25), có nghĩa là một sự hiểu biết chính xác về các sự kiện trong cuộc đời của Chúa, có lẽ bao gồm cả lời tường thuật về sự sống lại. Tuy nhiên, dường như ông không có kiến thức nào về những gì diễn ra ngay sau khi Chúa thăng thiên, tức là sự giáng lâm của Chúa Thánh Linh.
Thứ tư, tại thành Ê-phê-sô, ông đã được ông bà A-qui-la và Bê-rít-sin nghe giảng và đem về ở với họ, “giải bày đạo Đức Chúa Trời cho càng kỹ lưỡng hơn nữa”. Ông Lu-ca không nói chi tiết, nhưng chúng ta có thể chắc chắn rằng A-bô-lô đã có thời gian lâu dài ở cùng ông bà A-qui-la và đã vượt lên trải nghiệm phép báp-têm về sự ăn năn của Giăng để nhận lãnh phép báp-têm bằng Thánh Linh mà Chúa Jêsus đã hứa ban.
Thứ năm, ông được anh em giục lòng và viết thơ gởi gắm để thi hành chức vụ giảng dạy trong xứ A-chai, sau khi đã được củng cố với sự hiểu biết toàn diện hơn về sứ điệp cứu rỗi. Ông thi hành chức vụ tại thành Cô-rinh-tô trong khi Phao-lô đi đây đó giảng dạy (Công 19:1). Đóng góp của ông cho cộng đồng Cơ Đốc non trẻ bao gồm sự truyền thông Lời Chúa, củng cố đức tin và biện giáo. Cô-rinh-tô là một đô thị quốc tế có ảnh hưởng trong thế giới thời đó, và những lời dạy của A-bô-lô ắt hẳn đã lan toả đến với dân chúng đa dạng. Khả năng giao tiếp với cả người Do Thái và người ngoại, cùng với tài hùng biện và kiến thức của ông hẳn đã góp phần gây dựng và có tác động đáng kể đến sự phát triển của Hội Thánh ở thành phố đó.
Chúng ta gặp lại A-bô-lô trong các thư tín của Phao-lô. Những lời dạy và tài hùng biện của ông đã thu hút sự chú ý đặc biệt, dẫn đến việc hình thành các phe phái trong Hội thánh Cô-rinh-tô. Trong một số phân đoạn trong thư I Cô-rinh-tô, ông Phao-lô cho thấy cộng đồng tín hữu tại Cô-rinh-tô đã có sự phân rẽ, một số người xưng mình “là của A-bô-lô” (1:12). Phao lô cho biết: Phao-lô đã trồng, A-bô-lô đã tưới, nhưng Đức Chúa Trời đã làm cho lớn lên; ông A-bô-lô cũng như hai ông Phao-lô và Sê-pha đều là người phục vụ Hội Thánh và là tôi tớ của Đức Chúa Trời (3:4-6, 22). Vậy nên, người Cô-rinh-tô cần học theo Phao-lô cũng như A-bô-lô, và “chớ sanh lòng kiêu ngạo, theo phe người nầy nghịch cùng kẻ khác” (4:6).
Lời của sứ đồ Phao-lô cho thấy A-bô-lô thật sự phục vụ Chúa và không liên quan đến sự chia rẽ nảy sinh giữa người Cô-rinh-tô. Phao-lô khen ngợi chức vụ của ông và nhắc nhở người Cô-rinh-tô rằng tất cả những người rao giảng Phúc Âm, kể cả A-bô-lô, chỉ là những tôi tớ làm việc hướng tới một mục tiêu chung. Trong lời kết thư I Cô-rinh-tô, Phao-lô cho biết ông cố khuyên “anh em chúng ta là A-bô-lô” đến với Hội thánh Cô-rinh-tô “nhưng hiện nay người chắc chưa khứng đi.” (I Cô 16:12). Có lẽ vì ông A-bô-lô muốn tránh không để những tín hữu Cô-rinh-tô hâm mộ mình và kết phe đảng vì mình một lần nữa.
Ông A-bô-lô được sứ đồ Phao-lô nhắc đến một lần nữa trong Tít 3:13, “Hãy lo liệu cho Xê-na, là thầy dạy luật, và A-bô-lô, đừng thiếu đồ chi hết, trong khi họ ra đi.” Điều đó cho thấy ông A-bô-lô đã trung tín phục vụ Chúa lâu dài trong tư cách một giáo sĩ lưu động, và đáng được quan tâm chăm sóc để có thể chuyên lo công việc Chúa.
II. Những bài học từ cuộc đời và chức vụ của A-bô-lô:
1. Tài năng và ân tứ trong chức vụ.
Một người có tài hùng biện và uyên bác, hiểu biết thấu đáo về Kinh Thánh và lòng kính mến Đức Chúa Trời một cách nhiệt thành, nhưng phải nhận lãnh Thánh Linh và ân tứ Thánh Linh để trở nên chứng nhân thật và kết quả của Chúa. Ông A-bô-lô minh hoạ cho mối liên hệ giữa tài năng, học vấn và ân tứ trong sự hầu việc Chúa. Học vấn và tài năng do Chúa ban và phát triển qua sự rèn luyện của con người, có cần nhưng chưa đủ nếu người hầu việc Chúa không nhận được ơn gọi và ân tứ thuộc linh cho chức vụ.
2. Tận hiến cho Chúa.
Ông A-bô-lô là một tấm gương tận hiến cho Chúa, dấn thân phục vụ. Một người có tài và có thể có tiếng tăm, ông có thể chọn danh vọng hoặc giàu có nếu đi theo con đường diễn thuyết hoặc triết học. Nhưng ông đã chọn giảng Tin Lành.
3. Lòng nhiệt thành rao truyền Lời Chúa.
Ông A-bô-lô làm gương về sự nhiệt thành truyền đạt Lời Chúa xuất phát từ lòng kính mến Chúa và yêu tha nhân. Một khi đã biết Chúa, ông không thể không muốn nói về Chúa và giúp người khác lớn lên trong Chúa.
4. Tầm quan trọng của sự khiêm nhường và chịu học hỏi.
Martin Luther cho rằng rất có thể A-bô-lô là trước giả sách Hê-bơ-rơ; chúng ta không chắc lắm, nhưng điều chúng ta biết chắc là ông có kiến thức sâu nhiệm về Kinh Cựu Ước lẫn về con người và chức vụ của Chúa Jêsus. Nhưng ông A-bô-lô đã sẵn sàng học hỏi và điều chỉnh những lời dạy của mình cho thấy tầm quan trọng của sự khiêm tốn và cam kết trung thành với Lẽ Thật là thiết yếu cho chức vụ và đời sống Cơ Đốc.
5. Tấm gương về sự đồng công, hiệp nhất trong công việc Chúa.
Dù được hâm mộ và phải đối mặt với những thách thức liên quan đến sự chia rẽ trong Hội Thánh Cô-rinh-tô, ông A-bô-lô chọn trung thành với Đấng Christ trong vai trò tôi tớ và người giảng Phúc Âm cùng với những người bạn đồng lao, mà chúng ta có thể thấy được qua sự trình bày của sứ đồ Phao-lô. Nhờ đó, ông góp phần giữ gìn sự đồng công, hiệp một trong công trường thuộc linh.
6. Sự thiết yếu của mặc khải.
Câu chuyện của A-bô-lô cũng cho thấy sự thiết yếu của sự mặc khải để biết Chúa. Dù Kinh Thánh Cựu Ước và những lời dạy của Giăng Báp-tít giãi bày nhiều điều về Chúa, nhưng A-bô-lô vẫn cần được Chúa dùng ông bà A-qui-la và Bê-rít-sin bày tỏ lẽ thật của Phúc Âm và dẫn đến với Đấng Christ, kinh nghiệm phép báp-têm của Thánh Linh chứ không chỉ phép báp-têm ăn năn của Giăng Báp-tít.
7. Tầm quan trọng của công tác môn đồ hoá.
Câu chuyện của A-bô-lô và ông bà A-qui-la cũng cho thấy tầm quan trọng của môn đồ hoá từng đối tượng khác nhau, theo giai đoạn theo Chúa khác nhau. Môn đồ hoá cần chủ đích, thời gian, và nỗ lực, với mục tiêu giúp người tin trở nên giống Chúa, trưởng thành, sống chứng nhân cho Chúa theo khả năng, ơn gọi của mình.
8. Tiếng gọi gắn kết với tâm trí.
Cuộc đời và chức vụ của ông A-bô-lô cũng cho thấy tiếng gọi rèn luyện đời sống tâm trí trong đời sống Cơ Đốc. Chúa đã dùng bối cảnh học thuật tại quê hương của ông A-bô-lô cùng với sự học hỏi của ông để nuôi dưỡng ông trở nên một nhà hùng biện và biện giáo Cơ Đốc. Ông giảng dạy, tranh luận về đức tin không nhằm chứng tỏ sự khôn ngoan đối đáp với người nghe, mà là “trở nên mọi cách cho mọi người” với những người chọn cách tiếp cận với Phúc Âm qua tâm trí. Đó cũng là bài học cho những chứng nhân của Chúa trong thời đại hôm nay. Chúa có thể dùng biện giáo như phương tiện để dẫn người nghe đến Đấng Christ; điều quan trọng là những chứng nhân của Chúa cần kỷ luật trong đời sống tâm trí, chịu trang bị, học hỏi tri thức bên cạnh những hiểu biết thuộc linh, để có thể được Chúa dùng như những “A-bô-lô” của thời đại.
Tài liệu tham khảo:
• C. M. Kerr, “Apollos”, ed. Geoffrey W. Bromiley, The International Standard Bible Encyclopedia, Revised (Wm. B. Eerdmans, 1979–1988), 188–189.
• Gerald F. Hawthorne, Ralph P. Martin, and Daniel G. Reid, Dictionary of Paul and His Letters (Downers Grove, IL: InterVarsity Press, 1993), 37–39.
• L. D. Hurst, “Apollos (Person)”, ed. David Noel Freedman, The Anchor Yale Bible Dictionary (New York: Doubleday, 1992), 301.
• Moisés Silva and Merrill Chapin Tenney, The Zondervan Encyclopedia of the Bible, A-C (Grand Rapids, MI: The Zondervan Corporation, 2009), 244–245.
• Walter A. Elwell and Philip Wesley Comfort, Tyndale Bible Dictionary, Tyndale Reference Library (Wheaton, IL: Tyndale House Publishers, 2001), 95.
• Walter M. Dunnett, “Apollos”, ed. Charles F. Pfeiffer, Howard F. Vos, and John Rea, The Wycliffe Bible Encyclopedia (Moody Press, 1975).
(Nhóm biên tập Chuyên mục Nhân vật Kinh Thánh)