Hầu hết người Việt Nam đều tôn kính Ông Trời. Tại vì Ngài là Ðấng Tạo Hóa của vũ trụ. Chỉ có một mình Ngài có thẩm quyền tuyệt đối trên muôn loài vạn vật, kể cả loài người. Kinh sách dạy: Thiên sanh nhơn, nghĩa là Ông Trời sanh ra loài người. Chúng ta là con của Ngài. Ngài là Ðấng sanh ra và nuôi dưỡng chúng ta. Ngài nuôi dưỡng bằng cách điều hòa thời tiết cho có gạo, nước, dưỡng khí và nhiều vật cần dùng khác…. Những vị Ðạo đức cao trọng trên thế gian chỉ là những người Thầy tốt, dạy những điều lành, nhưng không phải là Cha sanh ra chúng ta. Vậy mà nếu chúng ta không biết ơn Ông Trời, không thờ phượng Ông Trời theo cách đẹp lòng Ngài mà lại đi thờ phượng ai khác, thật là có tội rất lớn với Ông Trời.
Kính thưa quý vị,
Có một sự thật mà ít khi chúng ta suy nghĩ đến. Ðó là mỗi chúng ta không tự tạo ra được chính mình để có mặt trên đất nầy. Vậy thì sự có mặt của chúng ta trên đất là ngẫu nhiên sao? Không phải như vậy. Vì mỗi một con người chúng ta thật là quý báu, cho nên sự hiện diện chúng ta trên đất phải có một ý nghĩa tốt đẹp, chớ không phải là một sự tình cờ may rủi. Dù chúng ta không biết hết những điều thuộc về cuộc đời của mình, nhưng có một Ðấng biết rõ mọi sự về chúng ta. Ðấng đó là Ông Trời, vì Ngài đã tạo dựng mỗi chúng ta.
Ông Trời là Ðấng Tạo Hóa thánh khiết. Chúng tôi gọi Ngài là Ðức Chúa Trời, là Thượng Ðế, là Ðấng Hằng sống, là Cha Thiên Thượng, là Cha Từ Ái. Cho nên khi đề cập đến những Danh xưng nầy, là chúng tôi nói đến Ông Trời.
Ông Trời tạo dựng chúng ta, Ngài cho chúng ta có hai giai đoạn sống, đó là:
– Giai đoạn sống tạm trên đất, và
– Giai đoạn sống đời đời.
Giai đoạn sống tạm trên đất trong khoảng trăm năm để chúng ta chuẩn bị cho giai đoạn sống đời đời sau khi từ giã cõi trần.
a) Trong giai đoạn sống tạm trên đất, ai cũng bất toàn tội lỗi. Nếu những tội lỗi chúng ta đã được Ðức Chúa Trời tha thứ, chúng ta có sự thông công mật thiết với Cha Thiên Thượng là Ðức Chúa Trời, thì khi giai đoạn sống tạm trên đất chấm dứt, chúng ta sẽ có giai đoạn sống đời đời phước hạnh với Cha Thiên Thượng trong Thiên quốc của Ngài.
b) Ngược lại, trong giai đoạn sống tạm trên đất, nếu tội lỗi chúng ta chưa được tha thứ, chúng ta không có sự thông công mật thiết với Cha Thiên Thượng, thì khi giai đoạn sống tạm trên đất chấm dứt, chúng ta sẽ bị phân cách với Cha Thiên Thượng vĩnh viễn và bị hình phạt đời đời vì tội lỗi của chính chúng ta. Vì Ngài là Ðấng thánh khiết cho nên nếu tội lỗi chúng ta chưa được tha thứ thì chúng ta không được sống với Ngài.
Khi Ðức Chúa Trời tạo dựng chúng ta, Ngài muốn mỗi chúng ta đều là người con yêu dấu của Ngài, để giữa Ngài và chúng ta luôn luôn có tình thân ái Cha-con với nhau. Nhưng tiếc thay, chúng ta không chịu vâng theo ý Cha Thiên Thượng mà lại vô tình hay cố ý làm nhiều điều lỗi lầm theo ý riêng của mình. Những lỗi lầm đó làm cho chúng ta càng lúc càng xa cách Ðức Chúa Trời thánh khiết và càng ngày càng phạm tội thêm. Nhưng cảm ơn Ðức Chúa Trời là Cha Từ Ái của chúng ta, dù chúng ta phạm tội, Ngài vẫn thương yêu và sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, và điều quý hơn nữa, đó là Ngài bằng lòng “chấp nhận” chúng ta, nếu chúng ta chịu trở lại làm con cái của Ngài.
Muốn trở lại làm con cái của Cha Từ Ái thì chúng ta phải làm sao? Phần sau của bài viết nầy có đề cập đến.
Câu hỏi là bây giờ tình trạng cuộc đời của chính quý vị ra sao?
1. Quý vị đã được Cha Thiên Thượng chấp nhận trở lại chưa? Hay quý vị vẫn còn xa cách Cha Thiên Thượng của mình và đang bâng khuâng không biết cuộc đời của mình có ý nghĩa gì, và rồi khi qua đời linh hồn mình sẽ ra sao? Nếu vậy, xin quý vị hãy dành một ít thời gian để đọc bài viết nầy, để quý vị có thể tìm thấy giải pháp tốt lành cho cuộc đời của chính quý vị. Vì trong bài viết nầy có ghi lại những Lời Yêu thương của Cha Thiên Thượng gởi đến cho quý vị.
2. Hay là quý vị đã được Cha Thiên Thượng chấp nhận trở lại làm con yêu dấu của Ngài rồi? Nếu vậy, thật là một phước hạnh lớn lao mà Cha Thiên Thượng đã ban cho quý vị. Xin quý vị hãy dành thời gian để đọc bài viết nầy, ôn lại ơn cứu chuộc của Cha Thiên Thượng để quý vị làm chứng cho nhiều người khác, hầu cho họ biết thế nào là tình yêu ngọt ngào mà Ngài đã dành cho quý vị, và Ngài cũng sẵn sàng dành cho những người chưa biết đến Danh Ngài. Quý vị ơi, lẽ nào được ơn cứu rỗi của Ðức Chúa Trời rồi quý vị yên lặng sao?
Xin mời quý vị cùng đọc.
VỀ ÐỨC CHÚA TRỜI
I.- QUÝ VỊ NGHĨ CÓ ÐỨC CHÚA TRỜI KHÔNG?
Khi tạo dựng loài người, Ông Trời đã ban cho loài người có lương tâm để loài người biết rằng có Ngài, dù không thấy Ngài. Người Việt Nam kêu: “Trời ơi!” Người Anh gọi: “Oh! My God!” Người Do thái gọi: “Ðức Giê-hô-va!”
Người nông dân Việt Nam khẩn nguyện rằng: “Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống, lấy ruộng tôi cày…” Trong lòng người ta luôn luôn tự nhủ rằng có Ông Trời. Cho nên người ta sợ Trời trả báo, sợ Trời đánh, sợ Trời hành, sợ Trời phạt. Trong đời sống, người ta nói ăn cơm hột ngọc Trời ban, uống nước Trời cho, thở không khí của Trời. Ðến ngày nào đó Trời kêu ai nấy dạ, sau khi dạ, sẽ chầu Trời.
Khi chúng ta thấy muôn loài vạn vật thì chúng ta biết chắc chắn phải có một Ðấng có quyền năng lớn lao thì mới có thể tạo nên muôn loài vạn vật được. Ðấng đó là Ông Trời, chúng ta gọi là Ðấng Tạo Hóa, hay gọi là Ðức Chúa Trời.
Thật ra thì chỉ cần việc nhỏ là cái nhà chúng ta đang ở, đâu phải là tự nhiên mà có. Cái nhà phải do người thợ xây cất. Thế thì sao mà cả vũ trụ nầy lại tự nhiên mà có được? Phải là do Ðức Chúa Trời Quyền năng tạo dựng nên.
II.- ÐỨC CHÚA TRỜI LÀ ÐẤNG TẠO HÓA
Kinh Thánh xác nhận rằng Ðức Chúa Trời là Ðấng Tạo hóa:
1. Kinh Thánh chép: “Ðức Chúa Trời dựng nên loài người như hình Ngài… Ngài dựng nên người nam cùng người nữ.” (Kinh Thánh, Sáng thế ký 1:27).
2. Kinh Thánh chép: “Ðức Giê-hô-va đã dựng nên trời, đất, biển, và muôn vật ở trong đó.” (Kinh Thánh, Xuất Ê-díp-tô-ký 20:11a).
3. Sách Nho cũng dạy: “Thiên sanh vạn vật, duy nhơn tối linh.”
VỀ LINH HỒN
I.- LOÀI NGƯỜI CÓ LINH HỒN KHÔNG? TẠI SAO?
1. Loài người có linh hồn.
Về phương diện thể chất, chúng ta nhận thấy cơ thể loài người và loài vật đều được tạo nên từ những hợp chất hóa học căn bản như carbon, nitro, calcium… và đều có chứa nhiều nước. Vì vậy, nếu loài người không có linh hồn, thì loài người không khác gì loài vật và không quý hơn loài vật. Nhưng thật sự thì loài người khác hơn loài vật và quý hơn loài vật vô cùng. Sở dĩ như vậy là vì loài người có linh hồn, Thượng Ðế cũng ban cho con người có lý trí, có tình cảm và sự khôn ngoan để nhận biết Ngài.
2. Linh hồn của một người quý lắm:
Linh hồn hay thể xác của loài người đều rất quý. Riêng linh hồn thì thật là quý. Kinh Thánh nói: “xác chẳng có hồn thì chết.” (Kinh Thánh, Gia cơ 2:26). Ðối với người chết, dù có yêu thương bao nhiêu đi nữa thì chúng ta cũng phải đem thể xác người chết đó đi chôn hoặc thiêu hủy mà thôi. Vì linh hồn người nầy đã lìa thể xác.
3.- Ðức Chúa Trời tạo dựng nên linh hồn:
Tiên tri Giê-rê-mi chép: “Thật như Ðức Giê-hô-va hằng sống, là Ðấng đã làm nên linh hồn nầy cho chúng ta.” (Kinh Thánh, Giê-rê-mi 38:16)
Ðức Chúa Trời phán: “Các linh hồn mà Ta đã dựng nên…” (Kinh Thánh, Ê-sai 57:16)
Ðức Chúa Giê-su phán một lời rất quan trọng về linh hồn rằng: “Người nào dù được cả thế giới mà mất linh hồn mình, thì được ích gì?” (Kinh Thánh, Ma-thi-ơ 16:26 BDM)
Khi nói “mất linh hồn” là Chúa Giê-su có ý nói linh hồn bị hình phạt đời đời trong Hồ lửa.
II.- KHÔNG THẤY LINH HỒN, TÔI KHÔNG TIN?
Nếu nói: Vì tôi không thấy Ðức Chúa Trời và không thấy linh hồn nên tôi không tin. Quý vị nghĩ sao?
Chúng ta không nhìn thấy tình thương nhưng chúng ta biết cha mẹ yêu thương chúng ta. Chúng ta không thấy lương tâm, lý trí, nhưng chúng ta tin có lương tâm, lý trí. Chúng ta không thấy dưỡng khí, nhưng chúng ta tin là có dưỡng khí để cho chúng ta thở… Cứ nhìn vào trật tự vận hành của vũ trụ, sự cao cả của nhân vị con người mà ta biết có Ðức Chúa Trời tạo dựng muôn vật và tạo dựng con người có linh hồn.
Trên đời nầy rất nhiều điều hiện hữu dù chúng ta không thấy, nhưng chúng ta phải tin là có.
VỀ KINH THÁNH
I.- LỊCH SỬ
Kinh Thánh có cả thảy 66 sách khác nhau, được viết bởi 40 người trong khoảng 1.590 năm. Những người viết Kinh Thánh được gọi là “Trước giả Kinh Thánh,” vì họ không tự viết theo ý riêng, nhưng viết theo sự hướng dẫn bởi Thánh Linh của Ðức Chúa Trời. Kinh Thánh gồm có hai phần: Cựu ước và Tân Ước. Cựu Ước nói về Giao ước của Ðức Chúa Trời với loài người, qua tuyển dân của Ngài là dân Do Thái. Tân Ước nói về Giao ước của Ðức Chúa Trời với loài người, qua Con Ngài là Ðức Chúa Giê-su.
Ðến nay Kinh Thánh đã được dịch ra hơn 420 thứ tiếng. Riêng phần Tân Ước đã được dịch ra hơn 1.100 thứ tiếng. Kinh Thánh là quyển sách có nhiều người đọc nhất thế giới.
Quyển sách đầu tiên của Kinh Thánh là sách Sáng thế ký, do Môi-se viết cách nay khoảng 3.500 năm. Quyển sách cuối cùng của Kinh Thánh là sách Khải huyền, do Sứ đồ Giăng viết cách đây khoảng 1.915 năm. Vậy thì Kinh Thánh là quyển sách rất cổ, đã trải qua hàng ngàn năm, nhưng không bao giờ lỗi thời. Kinh Thánh là Lời Ðức Chúa Trời cho mọi thời đại, vì “Cả Kinh Thánh đều là bởi Ðức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình.” (Kinh Thánh, II Ti-mô-thê 3:16).
II.- CÁC TRƯỚC GIẢ KINH THÁNH
Những người viết Kinh Thánh là những người sống trong những niên đại khác nhau, hoàn cảnh khác nhau, nghề nghiệp khác nhau. Nhưng lạ thay, những gì họ viết đều hòa hợp với nhau và có cùng một ý chính là bày tỏ tình yêu của Thượng Ðế dành cho nhân loại và phương cách của Ngài đặt ra để cứu tội nhân. Có thể kể tên một số các trước giả Kinh Thánh như là:
– Môi-se là một người Do Thái được nuôi như một hoàng tử trong cung vua Ai Cập. Ông viết 5 sách đầu tiên của Kinh Thánh, vào khoảng năm 1.440 BC.
– Giô-suê là một tướng lãnh. Ông viết sách Giô suê vào khoảng năm 1.390 BC .
– Sa-mu-ên là một tu sinh, sau trở thành vị Quan xét của dân Y sơ ra ên. Ông viết sách I Sa- mu-ên & II Sa-mu-ên vào khoảng năm 930 BC.
– Sa-lô-môn là một vị vua. Ông viết sách Truyền Ðạo, gọi là Giáo huấn, vào khoảng năm 910 BC.
– A-mốt là một người chăn chiên. Ông viết sách A-mốt vào khoảng năm 755 BC.
– Ê-sai là một vị Tiên tri viết sách Ê-sai vào khoảng năm 710 BC.
– Ða-ni-ên là một người Do Thái bị bắt làm phu tù và bị lưu đày qua xứ Ba-by-lôn. Ông viết sách Ða ni ên khoảng năm 537 BC.
– Nê-hê-mi là quan Tổng trấn. Ông viết sách Nê hê mi vào khoảng năm 435 BC.
– Gia-cơ là em của Ðức Chúa Giê-su. Ông viết sách Gia cơ vào khoảng năm AD 47.
– Phao-lô là một Luật sư. Ông viết các sách Rô-ma – 1,2 Cô rinh tô – Galati… khoảng năm AD 58.
– Ma-thi-ơ là người thu thuế. Ông viết sách Ma thi ơ vào khoảng năm AD 60.
– Lu-ca là Bác sĩ. Ông viết sách Lu ca và Công vụ các sứ đồ vào khoảng năm AD 60.
– Giăng là người đánh cá. Ông viết các sách Phúc Âm Giăng, thơ Giăng 1,2,3 và Khải huyền vào khoảng năm AD 90.
III.- ỨNG NGHIỆM VỀ CUỘC ÐỜI CHÚA GIÊ-SU
Trước khi Ðức Chúa Giê-su giáng sanh nhiều trăm năm, có nhiều Tiên tri đã nói trước nhiều điều về Ðức Chúa Giê-su và đã được ứng nghiệm hoàn toàn, có thể kể vài vị tiên tri như:
1. Tiên Tri Mi-chê:
Tiên tri Mi-chê sống trước khi Chúa Giáng sanh khoảng 750 năm, đã nói tiên tri nơi Giáng sanh của Chúa Giê-su. Ông viết: “Hỡi Bết-lê-hem Ép-ra-ta, ngươi ở trong hàng ngàn Giu-đa là nhỏ lắm, song từ nơi ngươi sẽ ra cho ta một Ðấng cai trị trong Y-sơ-ra-ên; gốc tích của Ngài bởi từ đời xưa, từ trước vô cùng.” (Kinh Thánh, Mi-chê 5:1)
Lời tiên tri trên đã đúng. Sứ đồ Ma-thi-ơ ghi lại: “Ðức Chúa Giê-su đã sanh tại thành Bết-lê-hem, xứ Giu-đê, đang đời vua Hê-rốt.” (Kinh Thánh, Ma-thi-ơ 2:1).
2. Tiên Tri Ê-sai:
Tiên tri Ê-sai sống trước khi Chúa giáng sanh khoảng 700 năm, đã nói tiên tri về sự sanh ra của Chúa Cứu thế rằng: “Nầy một gái đồng trinh sẽ chịu thai, sanh ra một trai, và đặt trên là Em-ma-nu-ên.” (Kinh Thánh, Ê sai 7:14).
Ðúng vậy, Chúa Giê-su đã giáng sanh bởi nữ đồng trinh Ma-ri, Kinh Thánh ghi lại rằng nàng “chẳng hề nhận biết người nam nào.” (Kinh Thánh, Lu ca 1:34).
Tiên tri Ê-sai đã nói trước về sự chết của Ðức Chúa Giê-su: “Người ta đã đặt mồ người với những kẻ ác, nhưng khi chết, người được chôn với kẻ giàu.” (Kinh Thánh, Ê-sai 53:9). Sau lời tiên tri nầy khoảng bảy trăm năm, khi Ðức Chúa Giê-su bị đóng đinh thì người ta đã đặt Ngài ở giữa hai tên trộm cướp “một tên bên hữu, một tên bên tả.” (Kinh Thánh, Lu-ca 23: 33). Về sự chôn xác Ðức Chúa Giê-su thì lúc đó có một người rất giàu tên là Giô sép. Ông ta sắm sẵn cái huyệt đã “đục cho mình trong hòn đá” (Kinh Thánh, Ma-thi-ơ 27: 60). Khi Chúa Giê-su đã chết thì chính Ông Giô sép xin xác Ðức Chúa Giê-su đem chôn trong huyệt mả đá mà Ông đã làm cho mình. Nghĩa là Ðức Chúa Giê-su được chôn cùng chỗ với kẻ giàu.
Lời Kinh Thánh còn ứng nghiệm nhiều điều khác nữa, nhưng chúng ta không thể kể hết trong bài viết ngắn ngủi nầy vì có trên 333 lời tiên tri trong Kinh Thánh đã được ứng nghiệm hoàn toàn.
VỀ LOÀI NGƯỜI
I.- LOÀI NGƯỜI ÐƯỢC ÐỨC CHÚA TRỜI TẠO NÊN
1. Ðức Chúa Trời tạo nên loài người:
Kinh Thánh chép: “Ðức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sanh linh.” (Kinh Thánh, Sáng thế ký 2:7).
2. Loài người được ở trong vườn Ê-đen phước hạnh:
Kinh Thánh chép: “Giê-hô-va Ðức Chúa Trời đem người ở vào cảnh vườn Ê-đen.” (Kinh Thánh, Sáng thế ký 2:15).
Ðức Chúa Trời phán dạy loài người khi đặt họ vào trong vườn Ê-đen rằng: “Ngươi được tự do ăn hoa quả các thứ cây trong vườn; nhưng về cây biết điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến; vì một mai ngươi ăn chắc sẽ chết.” (Kinh Thánh, Sáng thế ký 2:16-17).
Nhưng loài người đã ăn trái cây cấm đó. Họ phạm tội, vì chống lại mạng lịnh của Ðức Chúa Trời và làm theo ý riêng của họ.
II.- LOÀI NGƯỜI PHẠM TỘI CÀNG THÊM
Khi loài người phạm tội, thì họ mất sự thông công mật thiết với Ðức Chúa Trời. Kinh Thánh ghi lại: “Lối chiều, nghe tiếng Giê-hô-va Ðức Chúa Trời đi ngang qua vườn, A-đam và vợ ẩn mình giữa bụi cây, để tránh mặt Giê-hô-va Ðức Chúa Trời. Giê-hô-va Ðức Chúa Trời kêu A-đam mà phán hỏi rằng: Ngươi ở đâu? A-đam thưa rằng: Tôi có nghe tiếng Chúa trong vườn, bèn sợ,.. nên đi ẩn mình.” (Kinh Thánh, Sáng thế ký 3:8-10).
1. Loài người còn phạm tội gì nữa?
Sau khi họ phạm tội, “Ðức Chúa Trời bèn đuổi loài người ra khỏi vườn Ê-đen.” (Kinh Thánh, Sáng thế ký 3:23). Dần dần loài người sanh sản thêm nhiều, tản lạc khắp nơi và phạm thêm nhiều tội lỗi nữa. Có thể kể những tội như là: “Gian dâm, ô uế, luông tuồng, thờ hình tượng, phù phép, thù oán, tranh đấu, ghen ghét, buồn giận, cãi lẫy, bất bình, bè đảng, ganh gổ, say sưa, mê ăn uống, cùng các sự khác giống như vậy.” (Kinh Thánh, Ga-la-ti 5:19-21). Và “họ đã đổi vinh hiển của Ðức Chúa Trời không hề hư nát, để lấy hình tượng của loài người hay hư nát, hoặc của điểu, thú, côn trùng…. họ kính thờ và hầu việc những loài chịu dựng nên, thế cho Ðấng dựng nên.” (Kinh Thánh, Rô-ma 1:21-25). Họ thờ con cọp, con rắn, thờ người nầy, người kia do Ðức Chúa Trời dựng nên, mà lại không thờ Ðức Chúa Trời là Ðấng dựng nên mọi loài.
2. Loài người tự mình nhận tội:
Sự thật, mọi người đều biết rằng: “Nhơn vô thập toàn.” Làm người ai cũng phải tự nhận rằng mình không trọn vẹn, có nhiều lỗi lầm, tội lỗi.
3. Khổng Tử sau khi chu du thiên hạ, nói rằng:
“Ngô vị kiến thiện nhơn.” Nghĩa là “Ta chưa hề thấy người lành.”
4. Kinh Thánh dạy:
“Chẳng có một người công bình nào hết, dẫu một người cũng không.” (Kinh Thánh, Rô-ma 3:10). Và nếu “chúng ta nói mình không có tội chi hết, ấy là chính chúng ta lừa dối mình.” (Kinh Thánh, I Giăng 1: 8). Vì “mọi người đều đã phạm tội.” (Kinh Thánh, Rô-ma 3:23).
HẬU QUẢ CỦA TỘI LỖI
Ðức Chúa Trời là Ðấng Thánh khiết tuyệt đối, cho nên tội lỗi thật là một điều ghê tởm đối với Ngài. Vì loài người phạm tội, nên họ bị Ðức Chúa Trời hình phạt.
I.- NGƯỜI NỮ BỊ PHẠT
Bà Ê-va cãi lời Ðức Chúa Trời, đã ăn trái cấm, Ngài quở phạt bà rằng: “Ta sẽ thêm điều cực khổ bội phần trong cơn thai nghén; ngươi sẽ chịu đau đớn mỗi khi sanh con.” (Kinh Thánh, Sáng thế ký 3:16).
II.- NGƯỜI NAM BỊ PHẠT
Ðức Chúa Trời cũng đã quở phạt A-đam rằng: “Ngươi sẽ làm đổ mồ hôi trán mới có mà ăn, cho đến ngày nào ngươi trở về đất, là nơi có ngươi ra; vì ngươi là bụi, ngươi sẽ trở về bụi.” (Kinh Thánh, Sáng thế ký 3:19).
III.- ÐẤT ÐAI BỊ RỦA SẢ
Ðức Chúa Trời cũng phán rằng: “Ðất sẽ bị rủa sả vì ngươi.…” (Kinh Thánh, Sáng thế ký 3:17, 18).
IV.- MUÔN VẬT BỊ ẢNH HƯỞNG
Vì tội lỗi, loài người bị hình phạt và muôn vật cũng bị ảnh hưởng: “Vì muôn vật đã bị bắt phục sự hư không,… muôn vật đều than thở và chịu khó nhọc cho đến ngày nay.” (Kinh Thánh, Rô-ma 8: 20-22).
V.- LOÀI NGƯỜI BỊ PHÂN CÁCH VỚI ÐỨC CHÚA TRỜI:
Ðiều đau khổ nhất cho loài người là khi phạm tội thì mối thông công tình Cha-con thân ái giữa Cha Thiên Thượng và loài người bị phân cách. Ðức Chúa Trời cho họ biết rằng: “Ấy là sự gian ác các ngươi làm xa cách mình với Ðức Chúa Trời; và tội lỗi các ngươi đã che khuất mặt Ngài khỏi các ngươi.” (Kinh Thánh, Ê-sai 59:2).
VỀ NGUỒN CỦA SỰ SỐNG
Kinh Thánh dạy rằng: “Nguồn sự sống ở nơi Chúa.” (Kinh Thánh, Thi Thiên 36:9). Ðức Chúa Giê-su phán: “Ta là Con Ðường, Chân lý và Nguồn Sống.” (Kinh Thánh, Giăng14:6). Chính Chúa là Nguồn Sống cho nên Ngài có quyền năng ban sự sống cho loài người.
1. Ý nghĩa chữ “sống” trong Kinh Thánh:
Kinh Thánh chép: “Ai tin Con, thì được sự sống đời đời; ai không chịu tin Con, thì chẳng thấy sự sống đâu, nhưng cơn thạnh nộ của Ðức Chúa Trời vẫn ở trên người đó.” (Kinh Thánh, Giăng 3:36). Chữ “sống” trong Kinh Thánh có 3 ý nghĩa:
– Sống thuộc thể: Khi một người còn sống trên đất, linh hồn hiệp một với thể xác, là sống thuộc thể.
– Sống thuộc linh: Khi một người còn sống trên đời, được Chúa tha tội, có sự tương giao, có sự thông công với Nguồn sống là Ðức Chúa Trời, thì người đó có sự sống thuộc linh.
– Sống đời đời: Khi một người đang có sự sống thuộc linh mà nhắm mắt tắt hơi, linh hồn lìa khỏi xác và được đi về ở với Chúa. Chúa cho người đó được sự sống đời đời.
2. Ý nghĩa chữ “chết” trong Kinh Thánh:
Tiếc thay loài người đã phạm tội chống lại mạng lịnh của Ðức Chúa Trời cho nên loài người phải bị chết. Ðức Chúa Trời phán: “Nầy, mọi linh hồn đều thuộc về ta; … linh hồn nào phạm tội thì sẽ chết.” (Kinh Thánh, Ê-xê-chi-ên 18:4).
Chúng ta nên để ý rằng trong chữ “chết” có diễn tả sự “phân cách,” như câu: “xác chẳng có hồn thì chết.” (Kinh Thánh, Gia-cơ 2:26). Trong Kinh Thánh chữ “chết” có 3 ý nghĩa:
– Chết thuộc thể: Khi một người nhắm mắt tắt hơi, linh hồn “phân cách” với thể xác, gọi là chết thuộc thể.
– Chết thuộc linh: Khi một người còn sống trên đất, nhưng vì đã phạm tội, tâm linh người đó bị “phân cách” với Nguồn Sống, là Ðức Chúa Trời, người đó bị chết thuộc linh.
– Chết đời đời: Một người đang chết thuộc linh mà nhắm mắt tắt hơi, bị Ðức Chúa Trời đoán phạt, thì linh hồn người đó sẽ đi đến nơi hình phạt trong Hồ lửa và “tồn tại” ở nơi đó đời đời, bị “phân cách” vĩnh viễn với Nguồn Sống là Ðức Chúa Trời (Kinh Thánh, II Tê-sa-lô- ni-ca 1: 9), nên gọi là chết đời đời.
3. Án phạt dành cho tội lỗi:
Tội lỗi làm cho loài người “phân cách” với Ðức Chúa Trời, mà Ngài là Nguồn phước, cho nên loài người dù còn sinh hoạt trên đất nhưng họ không có sự bình an trong tâm hồn và không được phước, như Kinh Thánh dạy: “tội lỗi các ngươi ngăn trở các ngươi được phước.” (Kinh Thánh, Giê-rê-mi 5:25b)
Án phạt dành cho tội lỗi là sự chết: “Vì tiền công của tội lỗi là sự chết.” (Kinh Thánh, Rô-ma 6:23). Sự chết ở đây không những nói về sự chết thể xác mà còn nói về sự chết thuộc linh và sự chết đời đời. Một người dù giàu có, nhưng tội lỗi chưa được Cha Thiên Thượng tha thứ, thì tâm linh người đó không thể bình an và đời sống không thể có sự thỏa lòng được. Vì người nầy đang ở trong tình trạng chết thuộc linh!
4. Có thể tự mình làm lành để chuộc tội không?
Chắc chắn là không được. Vì trước mặt Ðức Chúa Trời thánh khiết tuyệt đối, loài người phải thú nhận rằng: “Chúng tôi hết thảy đã trở nên như vật ô uế, mọi việc công bình của chúng tôi như áo nhớp; chúng tôi thảy đều héo như lá, và tội ác chúng tôi như gió đùa mình đi.” (Kinh Thánh, Ê-sai 64: 6). Nghĩa là những điều chúng ta khoe là “thiện” chỉ là cái áo dơ nhớp, ô uế, không đủ tiêu chuẩn “thiện” trước mặt Ðức Chúa Trời.
Người xưa dạy rằng: “Chung thân hành thiện, thiện do bất túc; nhất nhật hành ác, ác tự hữu dư.” Nghĩa là: “Cả đời làm lành, lành chưa đủ; một ngày làm ác, ác đã dư.” Ðiều nầy thật là đúng vì nếu chúng ta cả đời không phạm luật pháp mà nay chỉ cần phạm luật pháp một lần thôi, thì Tòa án sẽ tuyên án phạt chúng ta ngay.
Ví dụ: Người kia có lòng tốt, thường dùng chiếc xe của mình, tự mua xăng rước người bịnh đi Bác sĩ, rước người yếu đau đi bệnh viện, chở dùm cho người lỡ đường bị mưa gió về nhà. Nhưng ngày kia Ông nầy chạy xe gây tai nạn cán gãy chân một người. Ông bị đưa ra tòa. Tòa hỏi Ông có cán gãy chân người nầy không? Ông trả lời: “Dạ có, nhưng thưa Quan Tòa, tôi làm lành nhiều lắm, nay chỉ cán người ta gãy có một chân thôi, xin Quan Tòa cho tôi lấy công chuộc tội.” Tòa nói không được và đã tuyên án phạt Ông ta theo luật định.
Như vậy, loài người có tội và không có cách nào tự chuộc tội được, vậy thì tất cả loài người sẽ phải bị hình phạt đời đời trong Hồ lửa sao?
GIẢI PHÁP CỨU CHUỘC CỦA ÐỨC CHÚA TRỜI QUA CHÚA GIÊ-XU
I.- NGUYÊN TẮC ÐỀN TỘI:
Chúng ta biết rõ rằng khi một người phạm tội thì phải bị hình phạt. Ðức Chúa Trời phán: “Mọi linh hồn đều thuộc về ta; … linh hồn nào phạm tội thì sẽ chết.” (Kinh Thánh, Ê-xê-chi-ên 18:4)
Chết là kết liễu sinh mạng. Kinh Thánh nói: “sinh mạng của xác thịt ở trong huyết.” (Kinh Thánh, Lê-vi-ký 17:11). Vì vậy khi đền tội, người đền tội phải chịu đổ huyết ra cho đến chết. Cho nên, Kinh Thánh xác định rằng: “không đổ huyết thì không có sự tha thứ.” (Kinh Thánh, Hê-bơ-rơ 9:22).
II.- ÐỨC CHÚA TRỜI CHO ÐỨC CHÚA GIÊ-XU ÐẾN THẾ GIAN:
Vì án phạt của tội lỗi là sự chết, cho nên người phạm tội phải chết. Nhưng vì lòng nhơn từ, Ðức Chúa Trời đã đưa ra giải pháp yêu thương để cứu tội nhân thoát chết. Giải pháp yêu thương đó là Ðức Chúa Trời cho Con Ngài là Chúa Giê-su đến thế gian để chịu chết đền tội cho tội nhân, để cứu tội nhân. Vì vậy, Ðức Chúa Giê-xu phán rằng: “Vì Ðức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy không bị hư mất mà được sự sống đời đời.” (Kinh Thánh, Giăng 3:16). Thánh Phao lô nói: “Ðức Chúa Giê-xu Christ đã đến trong thế gian để cứu vớt kẻ có tội.” (Kinh Thánh, I Ti-mô-thê 1:15)
III.- ÐỨC CHÚA GIÊ-XU LÀ MỘT NGƯỜI VÔ TỘI:
Khi ở trần thế, Ðức Chúa Giê-xu dạy những điều ngay thẳng và quở trách những thầy tế lễ giả hình. Họ ghen ghét Ðức Chúa Giê-su, họ bắt Ngài giải cho Quan Tổng Ðốc Phi-lát, và bịa đặt nhiều điều gian dối để kiện Ngài.
1. Quan xử án Chúa Giê xu:
Sau khi Phi-lát xét xử Ðức Chúa Giê-xu, “Phi-lát bèn nói với các thầy tế lễ cả và dân chúng rằng: Ta không thấy người nầy có tội gì.” (Kinh Thánh, Lu-ca 23:3-4)
Sau đó, một lần nữa, Phi-lát ra nói rằng: “Ðây nầy, ta dẫn người ra ngoài, để các ngươi biết rằng ta không tìm thấy người có tội lỗi chi.” (Kinh Thánh, Giăng 19:4). Các thầy tế lễ cả, và các kẻ sai kêu lên rằng: “Hãy đóng đinh hắn trên cây thập tự, hãy đóng đinh hắn trên cây thập tự! Phi-lát nói cùng chúng rằng: Chính mình các ngươi hãy bắt mà đóng đinh người; bởi vì về phần ta không thấy người có tội lỗi chi hết.” (Kinh Thánh, Giăng 19:6). Nghĩa là Quan xử án tuyên bố Chúa Giê-su vô tội.
2. Các Sứ đồ nói Ðức Chúa Giê-xu vô tội:
• Sứ đồ Phi e rơ nói: “Ngài chưa hề phạm tội, trong miệng Ngài không thấy có chút chi dối trá.” (Kinh Thánh, IPhi-e-rơ 2:22).
• Sứ đồ Giăng nói: “Ngài không có tội.” (Kinh Thánh, IGiăng 3:5b).
• Sứ đồ Phao lô nói Ðức Chúa Giê-xu là “Ðấng vốn chẳng biết tội lỗi.” (Kinh Thánh, IICô-rinh-tô 5:21).
• Kinh Thánh Hê bơ rơ nói Ðức Chúa Giê-su “bị thử thách trong mọi việc cũng như chúng ta, song chẳng phạm tội.” (Kinh Thánh, Hê-bơ-rơ 4:15b)
IV.- CHÚA GIÊ-XU TÌNH NGUYỆN CHỊU CHẾT:
Có phải Ðức Chúa Giê-xu tình nguyện chịu chết hay không? Hay là vì những kẻ bắt Ngài, những kẻ đóng đinh Ngài rất đông, Ngài không đủ sức chống trả? Nếu nói như vậy thì thật là không đúng đối với Ðức Chúa Giê-su. Vì Ngài không những là một người, mà Ngài còn là Ngôi Hai Ðức Chúa Trời Toàn năng. Với quyền năng cao cả, dù La-xa-rơ đã chết, đã chôn trong mồ mả Ngài có quyền kêu sống lại. Ngài quở cây vả bên đường “cây vả tức thì khô đi.” (Kinh Thánh, Ma-thi-ơ 21:19). Khi gặp bão giữa biển, Ngài: “quở gió và phán cùng biển rằng: Hãy êm đi, lặng đi! Gió liền dứt và đều yên lặng như tờ.” (Kinh Thánh, Mác 4:39)… Thế thì ai có thể giết được Ngài? Nếu Ngài phán bảo trái tim, buồng phổi của họ đừng hoạt động nữa, họ phải chết ngay. Nhưng Ðức Chúa Giê-su tình nguyện chịu chết. Ngài giải thích rằng: “Ta hy sinh tính mạng mình vì đàn chiên.” (Kinh Thánh, Giăng 10:15 BDM)
Vì luật đã định: “Không đổ huyết thì không có sự tha thứ” cho nên Ðức Chúa Giê-su bằng lòng chịu đóng đinh trên thập giá, huyết của Ngài đã đổ ra cho đến chết, để chuộc tội cho tội nhân. Cho nên Kinh Thánh nói: “huyết của Ðức Chúa Giê-xu, Con Ngài, làm sạch mọi tội chúng ta”(Kinh Thánh, I Giăng 1:7). Cảm tạ ơn Ðức Chúa Giê-xu, Ngài đã chết để cứu quý vị và tôi được sống!
Nhưng Ngài không chết luôn mà….
V.- CHÚA ÐÃ SỐNG LẠI ÐỂ BẢO ÐẢM SỰ CỨU RỖI CHO CHÚNG TA:
Sau khi Ðức Chúa Giê-xu chịu chết trên thập giá, người ta chôn thân xác của Ngài trong huyệt mả. Ba ngày sau, Ðức Chúa Giê-xu đã chiến thắng sự chết, Ngài sống lại và bước ra khỏi mồ mả cách vinh quang.
Kinh Thánh ghi rõ rằng: “Ðấng Christ chịu chết vì tội chúng ta theo lời Kinh Thánh; Ngài đã bị chôn, đến ngày thứ ba, Ngài sống lại, theo lời Kinh Thánh; và Ngài đã hiện ra cho Sê-pha, sau lại hiện ra cho mười hai Sứ đồ. Rồi đó, cùng trong một lần, Ngài hiện ra cho hơn năm trăm anh em xem thấy.” (Kinh Thánh, I Cô-rinh-tô 15:3-6).
Ðức Chúa Giê-xu sống lại để đảm bảo sự cứu chuộc cho chúng ta. Trong Danh Ðức Chúa Giê-xu, chúng ta dù đã qua đời, cũng sẽ được Ðức Chúa Trời khiến cho sống lại vào ngày Ðức Chúa Giê-su tái lâm. Lúc đó “Sẽ có tiếng kêu lớn và tiếng của thiên sứ lớn cùng tiếng kèn của Ðức Chúa Trời… bấy giờ những kẻ chết trong Ðấng Christ, sẽ sống lại trước hết” (Kinh Thánh, I Tê-sa-lô-ni-ca 4:16-17), sẽ được cất lên không trung mà gặp Chúa và chúng ta sẽ ở cùng Chúa mãi mãi.
VI.- CHÚA GIÊ-XU LÀ ÐẤNG HẰNG SỐNG VÀ LÀ ÐẤNG BAN SỰ SỐNG:
Chỉ có Ðức Chúa Giê-xu là Ðấng đắc thắng sự chết, vì Ngài là Ðấng “Hằng sống” (Hêbơrơ 7:25). Cho nên Ngài là Ðấng có quyền ban sự sống cho chúng ta. Thật vậy, Chúa phán: “Phàm ai nhìn Con và tin Con, thì được sự sống đời đời; Ta sẽ làm cho kẻ ấy sống lại nơi ngày sau rốt.” (Kinh Thánh, Giăng 6:40). Và “Cha khiến những kẻ chết sống lại và ban sự sống cho họ thể nào, thì Con cũng ban sự sống cho kẻ Con muốn thể ấy.” (Kinh Thánh, Giăng 5:21) [Chữ “Con” là Đức Chúa Con, là Đức Chúa Giê xu.]
VII.- ÐỨC CHÚA GIÊ-XU SỐNG LẠI CHỨNG TỎ CHỈ CÓ NGÀI LÀ CỨU CHÚA:
Chỉ có Ðức Chúa Giê-xu là Con Ðức Chúa Trời là Ðấng đã sống lại, sau khi chết ba ngày. Trên trần thế nầy không có ai đã chết rồi mà đến ngày thứ ba sống lại được. Vì vậy chỉ có Ðức Chúa Giê-xu là Chúa Cứu Thế mà thôi, như Kinh Thánh khẳng định rằng: “Chẳng có sự cứu rỗi trong Ðấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu.” (Kinh Thánh, Côngvụ các Sứ đồ 4:12)
VIII.- CHÚA GIÊ-XU GIÚP CHÚNG TA NỐI LẠI MỐI TƯƠNG GIAO VỚI ÐỨC CHÚA TRỜI:
Ðức Chúa Trời là Ðấng Thánh khiết tuyệt đối. Từ khi loài người phạm tội, loài người đã bị phân cách với Ngài.
Chúng ta hãy tưởng tượng có một vực sâu và vực sâu nầy có hai bên bờ cách xa nhau. Ðức Chúa Trời ở bên bờ thánh khiết; còn loài người chúng ta ở bên bờ tội lỗi. Bờ thánh khiết và bờ tội lỗi cách xa nhau thật xa! Xa cho đến nỗi loài người dù có cố gắng làm thiện, làm lành, tu nhơn tích đức bao nhiêu đi nữa cũng không bao giờ có đủ công đức để bắc cầu nối được hai bờ vực thẳm đó lại với nhau để mà đến cùng Ðức Chúa Trời.
Chỉ có Ðức Chúa Giê-xu là Con Ðức Chúa Trời vô tội mới tiếp xúc được với Ðức Chúa Trời thánh khiết. Cũng chỉ có Ðức Chúa Giê-su là Con Người vô tội mới chết thay cho loài người có tội được. Vì vậy chỉ có Ðức Chúa Giê-xu là “Ðấng Trung Bảo” nối lại được hai bên, một bên là Ðức Chúa Trời, một bên là tội nhân. Cho nên Kinh Thánh xác nhận rằng: “Chỉ có một Ðức Chúa Trời, và chỉ có một Ðấng Trung Bảo ở giữa Ðức Chúa Trời và loài người, tức là Ðức Chúa Giê-xu Christ.” (Kinh Thánh, I Ti-mô-thê 2:5)
IX.- BÂY GIỜ CHÚNG TA NÊN LÀM SAO?
Ðiều chúng ta cần làm là hãy đặt đức tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu – Ðấng đã chết trên thập giá đền tội cho chúng ta – thì Ðức Chúa Trời sẽ tha thứ tội lỗi chúng ta. Thánh Linh của Chúa giúp chúng ta có sự thông công với Ðức Chúa Trời và được gọi Ngài là Cha. Lời Chúa xác nhận: “hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Ðức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài.” (Kinh Thánh, Giăng 1:12). Thật là phước thay!
LỜI CHỨNG
Tôi xin làm chứng lại cuộc đời của tôi để quý vị thấy người theo Chúa thật sự được nhiều phước hạnh. Thật ra, không phải chỉ có tôi, nhưng bất cứ người nào thật lòng tin nhận Chúa đều có một cuộc đời phước hạnh để chia xẻ cùng quý vị.
Tôi được sanh ra trong thập niên 40 và lớn lên trong một gia đình con dân của Chúa. Nhưng mãi cho đến năm 12 tuổi tôi mới quyết định tin nhận Ðức Chúa Giê-xu chết trên thập giá vì tội của tôi, tôi xin Chúa tha thứ tội cho tôi và xin Chúa nhận tôi làm con của Ngài. Từ lúc đó cuộc đời tôi luôn được bình an và vui thỏa trong lòng.
Ở Việt nam lúc đó, tôi lớn lên trong khói lửa và trưởng thành trong chiến tranh. Suốt đời tôi trước năm 1975 có thể nói là gần như ngày nào tôi cũng có nghe tiếng súng nổ, có khi gần, có khi văng vẳng xa xa… Nhiều lần nguy hiểm dẫn đến sự chết xảy ra, chỉ cách xa tôi trong gang tấc! Có khi đi từ Sài gòn về Rạch giá, tôi ngồi trên chiếc xe đò mà cuộc chiến vẫn còn đang tiếp diễn, hai bên đang còn bắn nhau phía trước. Chiếc xe chạy chậm chậm, trong lúc xác người chết còn nằm bên lề đường chưa kịp dời đi. Quá hiểm nguy, nhưng Chúa giữ cho tôi được bình an. Có một lần, khoảng 100 người đang họp trong một Ðình làng, bom nổ, chín người bị thương, năm người chết, nằm quanh tôi, nhưng Chúa cho tôi được bình an. Cảm tạ ơn Chúa.
Ðặt hết niềm tin nơi Chúa, nên lòng tôi lúc nào cũng thật sự được bình an. Có những lúc dường như phải “đi trong trũng bóng chết, tôi cũng chẳng sợ tai họa nào, vì Chúa ở cùng tôi.” (Kinh Thánh, Thi thiên 23:4). Chắc chắn ngay lúc đó, nếu tôi bước vào sự chết thì, Ðức Chúa Trời sẽ đem tôi là “kẻ ngủ trong Ðức Chúa Giê-xu Christ đến với Ngài.” (Kinh Thánh, I Tê-sa-lô-ni-ca 4:14). Khi chiến tranh chấm dứt năm 1975, tôi thấy mình vẫn còn sống sót, dù trải qua cuộc chiến dài gần ba mươi năm. Tôi cảm tạ ơn Chúa.
Có nhiều lúc gia đình tôi nghèo túng, nhưng Chúa cho vẫn đủ ăn. Ðức Chúa Trời là Ðấng Năng quyền và cũng là Ðấng Yêu thương, Chúa phán: “Không ai trông cậy Ngài mà lại bị hổ thẹn.” (Kinh Thánh, Thi-thiên 25:3), cho nên hôm nay nhìn lại, gia đình tôi gồm vợ chồng, ba con, một dâu và một rể, (một đứa chưa lập gia đình), tất cả chúng tôi đều hết lòng cảm tạ ơn Chúa vì ơn thương xót quá lớn lao của Ngài đã dẫn đưa gia đình chúng tôi từng bước đến cuộc sống tràn đầy phước hạnh như ngày hôm nay.
Năm nay tôi đã đến tuổi nghỉ hưu, nhìn lại cuộc đời mình theo Chúa hơn năm mươi năm, dù có những lúc nguy nan, nghèo thiếu, nhưng Chúa giữ gìn dẫn dắt tôi vượt qua và Ngài luôn ban phước cho tôi quá nhiều. Tôi không đủ lời để cảm tạ ơn Cứu Chúa của tôi về những điều tốt lành mà Ngài ban cho tôi và gia đình tôi. Có nhiều lần tôi vấp phạm, Chúa nhơn từ tha thứ, rồi Chúa cho tôi được tiếp tục theo Ngài. Ngài tiếp trợ khi tôi thiếu thốn. Ngài ở cùng khi tôi hoạn nạn. Ngài an ủi khi tôi ngã lòng. Ngài chăm sóc khi tôi đớn đau. Ngài vỗ về khi tôi thất vọng. Ngài mở lối khi tôi bị ở vào cảnh cùng đường…
Ðức Chúa Trời đã làm ơn cho tôi, suốt cả đời sống của tôi, cho nên tôi đã được sống một cuộc đời tràn đầy phước hạnh trên đất nầy. Hơn thế nữa, rồi đây một ngày nào đó tôi sẽ từ giã cõi đời tạm nầy, để đi ở cùng Chúa Cứu Thế của tôi, là Ðấng đã yêu tôi hy sinh chính mình Ngài chịu chết vì tôi. Tôi sẽ được ở trong Thiên quốc với Ngài mãi mãi. Như Ngài đã hứa với tôi rằng: “Ta ở đâu con cũng ở đó.” (Kinh Thánh, Giăng 14: 3b BDM). Cảm tạ ơn Ðức Chúa Giê-xu, nhờ dòng huyết cứu chuộc của Ngài tôi được phước quá nhiều trong đời nầy và cả ở đời sau.
Thưa quý vị, nhờ ơn cứu rỗi của Ðức Chúa Giê-su mà một cuộc đời kém cỏi như tôi được nhiều hạnh phước. Phước của Chúa không phải để dành cho riêng ai, nhưng Chúa sẵn sàng ban cho tất cả những ai bằng lòng tin nhận Ngài. Chính Ðức Chúa Giê-su phán rằng: “Người nào đến với Ta, Ta sẽ không bao giờ ruồng bỏ.” (Kinh Thánh, Giăng 6:37 BDM)
Quý vị thân kính ơi, xin quý vị hãy tin nhận Ðức Chúa Giê-su, phước hạnh cao quý của Cha Thiên Thượng đang để dành cho quý vị trong đời nầy và suốt cả đời sau. Chúa không từ chối quý vị, lẽ nào quý vị từ chối Ngài!
X.- ÐIỀU KHÔNG MUỐN NHƯNG SẼ GẶP:
Có một điều, dù chúng ta có thích hay không cũng sẽ xảy đến. Ðó là Sự chết. Bất cứ ai cũng sẽ chết. Sau khi nhắm mắt, tắt hơi, “…bụi tro trở vào đất y như nguyên cũ, và thần linh trở về nơi Ðức Chúa Trời, là Ðấng đã ban nó.” (Kinh Thánh, Truyền Ðạo 12:7). Kinh Thánh quả quyết rằng: “Theo như đã định cho loài người phải chết một lần rồi chịu đoán xét.” (Kinh Thánh, Hê-bơ-rơ 9:27). Nghĩa là không phải chết là hết. Nhưng sau khi qua đời mọi người sẽ phải ứng hầu trước mặt Ðức Chúa Trời để chịu sự xét đoán công minh của Ngài.
Thưa quý vị, quý vị có phải là người toàn vẹn không? Quý vị có lỗi lầm nào không? Quý vị có tội trước mặt Ðức Chúa Trời là Ðấng Tạo Hóa thánh khiết của quý vị không?
Người có tội, khi đứng trước mặt Ðức Chúa Trời xét xử, người đó sẽ bị án phạt đời đời trong Hồ lửa vì chính tội lỗi của mình. Thật là kinh khiếp!
Nhưng thưa quý vị, chúng ta không tuyệt vọng. Vì tình yêu thương, Ðức Chúa Trời đã chuẩn bị sẵn con đường cứu rỗi cho mỗi chúng ta. Con đường đó là: Quý vị hãy tin nhận Ðức Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa của mình. Vì Ngài “là Ðấng yêu thương chúng ta lấy huyết Ngài rửa sạch tội lỗi cho chúng ta.” (Kinh Thánh, Khải huyền 1:6). Ðức Chúa Giê-su đã chịu hình phạt để đền tội cho quý vị tại thập tự giá rồi. Vì vậy Kinh Thánh xác nhận rằng: “Hiện nay chẳng còn có sự đoán phạt nào cho những kẻ ở trong Ðức Chúa Giê-xu Christ.” (Kinh Thánh, Rô-ma 8:1).
XI.- THẾ NÀO LÀ TIN NHẬN ÐỨC CHÚA GIÊ-XU?
Kinh Thánh dạy rằng chúng ta không thể nhờ công đức của mình để được cứu. Vì sự cứu rỗi là món quà quý báu của Ðức Chúa Trời, Ngài đem tặng cho những ai chịu tin nhận Con Ngài là Chúa Giê-xu làm Cứu Chúa. Sự cứu rỗi không thể đổi chác bằng công đức. Dó đó, Kinh Thánh dạy rõ rằng: Sự cứu rỗi có được “chẳng phải bởi việc làm đâu, hầu cho không ai khoe mình.” (Kinh Thánh, Ê-phê-sô 2:9)
Hôm nay nếu quý vị bằng lòng tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu, thì điều đó có nghĩa là:
– Quý vị nhận rằng mình là một người có tội với Ðức Chúa Trời, và vì tội lỗi, quý vị đáng bị hình phạt, nhưng Ðức Chúa Giê-xu là Con Ðức Chúa Trời – Ðấng vô tội – đã chịu chết trên thập giá để đền tội cho quý vị (xem Kinh Thánh, I Cô-rinh-tô 15:3b).
– Quý vị bằng lòng tin nhận Chúa Cứu Thế Giê-xu làm Cứu Chúa và làm Chủ đời sống mình. – Quý vị sẽ bằng lòng ăn năn, xoay bỏ khỏi những tội lỗi mình đã phạm để đi theo Chúa.
Quý vị không tốn kém gì cả. Xin mời quý vị tiếp nhận Ðức Chúa Giê-su làm Cứu Chúa để được Chúa tha thứ những tội lỗi của quý vị ngay hôm nay.
Thưa quý vị, khi mua sắm chiếc xe, quý vị mau mau mua bảo hiểm ngay, để bảo đảm rủi ro. Ðây là việc làm khôn ngoan. Còn linh hồn của quý vị thì sao? Quý vị có lo thế nào để bảo đảm cho linh hồn mình chưa? Quý vị hãy tin nhận Ðức Chúa Giê-xu ngay hôm nay, để Ngài bảo đảm chắc chắn cho linh hồn quý vị được cứu khỏi bị hình phạt trong Hồ lửa và quý vị được sống vĩnh phúc với Ngài trong Thiên quốc của Ðức Chúa Trời. Chúng ta không biết ngày mai mình sẽ ra sao, Kinh Thánh viết: “Người ta đi, chẳng có quyền dẫn đưa bước của mình.” (Kinh Thánh, Giê-rê-mi 10:23b). Cho nên “hiện nay là thì thuận tiện; kìa hiện nay là ngày cứu rỗi.” (Kinh Thánh, II Cô-rinh-tô 6:2b).
Ông Bà chúng ta dạy rằng: “Việc phải làm hôm nay, đừng để ngày mai.” Vì “ai biết ra sao ngày sau?”
XII.- ÐÔI LỜI TIN NHẬN ÐỨC CHÚA GIÊ-XU:
Muốn tin nhận Ðức Chúa Giê-xu, xin quý vị thưa với Chúa đôi lời chân thành như sau: “Kính lạy Ðức Chúa Trời, con biết con là một tội nhân, đáng bị hình phạt. Nhưng nay con tin Ðức Chúa Giê xu là Ðấng vô tội đã chịu chết trên thập tự giá để đền tội cho con. Con xin tin nhận Ðức Chúa Giê xu làm Cứu Chúa của con, xin Chúa tha thứ tội lỗi của con và cứu con. Xin Ðức Chúa Trời nhận con làm con của Ngài. Xin Ðức Thánh Linh dẫn con theo Chúa. Con cám ơn Chúa. Con cầu xin những điều nầy trong Danh Ðức Chúa Giê xu. A-men.”
Nếu đây là lời cầu nguyện chân thành, bày tỏ những gì lòng quý vị tin, hãy xem Chúa Giê-su đã hứa gì cho quý vị: “Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, hễ ai tin thì được sự sống đời đời.” (Kinh Thánh, Giăng 6:47)
Bây giờ quý vị có thể biết chắc rằng quý vị đã nhận được ơn cứu rỗi của Ðức Chúa Giê su và hưởng được sự sống đời đời. Vì Lời Chúa hứa chắc chắn rằng: “hễ ai tin đến Ngài đều được sự sống đời đời.” (Kinh Thánh, Giăng 3:15). Cảm tạ ơn Chúa.
Kính mời quý vị tìm đến một nhà thờ Tin Lành gần nơi ở của quý vị, gặp vị Mục sư ở đó, để hỏi thêm về ơn cứu rỗi của Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Cầu xin Ðức Chúa Trời là Cha Từ Ái ban cho quý vị được nhiều sức khỏe, bình an và cầu xin Ngài dẫn dắt quý vị trên bước đường theo Chúa tràn đầy phước hạnh Ngài đang dành sẵn cho quý vị.
Mục sư Trần Hữu Thành
msthanh18@hotmail.com
Đức Chúa Trời cũng sẽ làm nhiều điều lạ lùng trên đời sống bạn kể từ khi bạn mời Ngài làm Chủ cuộc đời mình. Chúng tôi xin hoan nghênh bạn và sẵn sàng giúp đỡ bạn những bước đầu tiên trên con đường theo Chúa. Xin bạn hãy liên hệ với chúng tôi để được hướng dẫn thêm.