Kinh Thánh: Công vụ các sứ đồ 5:1-11
Hội Thánh đầu tiên có thể nói là gương mẫu cho các Hội Thánh về sau trong nhiều khía cạnh của sự tin kính. Lòng yêu thương của những tín đồ ban đầu thật cao quý. Mọi người đều hiệp một ý một lòng cùng nhau, chẳng ai kể của mình là của riêng nhưng kể mọi vật là của chung. Những người có ruộng có nhà đều bán đi và đem số tiền bán được dâng vào Hội Thánh để các sứ đồ phân phát tùy theo sự cần dùng của mỗi người. Vì vậy, vào thời điểm đó không có tín hữu nào bị thiếu thốn về phương diện vật chất cả (Công vụ 4:32-37).
Tuy nhiên có một sự việc đáng buồn đã xảy ra trong Hội Thánh lúc bấy giờ. Trong khi nhiều người thành thật tận hiến toàn bộ những gì mình có để hầu việc Chúa thì lại có hai vợ chồng ông A-na-nia và bà Sa-phi-ra mưu toan với nhau để nói dối về sự dâng hiến của mình. Ông bà cũng theo cách của những tín hữu khác là đem bán gia sản mình có để dâng vào công việc chung của Hội Thánh. Điều này thật đáng trân quý nếu ông bà tùy theo lòng mình đã định mà quyên ra. Ông bà dâng bao nhiêu cũng được nếu bởi lòng tự nguyện. Chắc chắn Chúa vui dùng ông bà trong công việc Ngài. Nhưng vấn đề là ông bà đã thuận với nhau để lừa dối mọi người trong Hội Thánh. Ông bà chỉ dâng một phần số tiền bán được nhưng lại đồng mưu với nhau để nói với các sứ đồ rằng mình đã dâng toàn bộ số tiền. Chúng ta không rõ mục đích của việc nói dối này là gì. Và chúng ta cũng không biết ông bà muốn được lợi gì từ sự nói dối đó. Đứng về góc độ khách quan mà nói thì cái lợi trước mắt ông bà có thể nhận được nếu sự việc êm xuôi và không ai biết âm mưu của ông bà chỉ là tiếng khen của những người trong Hội Thánh rằng ông bà này biết tận hiến, biết chia sẻ với mọi người. Và nếu có được như vậy thì đối với Chúa hành động của ông bà cũng hoàn toàn vô nghĩa vì lời Chúa nói: “Vậy, khi ngươi bố thí, đừng thổi kèn trước mặt mình, như bọn giả hình làm trong nhà hội và ngoài đường, để được người ta tôn kính. Quả thật, ta nói cùng các ngươi, bọn đó đã được phần thưởng của mình rồi” (Ma-thi-ơ 6:2). Như vậy, nếu ông bà muốn tìm kiếm sự khen ngợi từ con người trong việc nói dối này thì ông bà thật đáng thương và quá cạn cợt. Ông bà đã quên đi sự hiện diện của Chúa nên hành động vô cùng dại dột. Hơn nữa, cái sai nghiêm trọng mà ông bà không nhìn ra là ông bà không phải đang nói dối con người nhưng là đang nói dối Thánh Linh của Đức Chúa Trời. Sứ đồ Phi-e-rơ quở trách ông bà rằng “ấy chẳng phải ngươi nói dối loài người, bèn là nói dối Đức Chúa Trời” (câu 4, 9). Ông bà có quyền không dâng hoặc dâng một phần mình có đều được. Các sứ đồ cũng không ép buộc ông bà phải dâng hết. Tuy nhiên, một khi thực hiện bất kỳ việc gì thì phải chân thật. Dâng bao nhiêu nói bấy nhiêu. Thật tiếc cho hành động đúng (biết dâng hiến) nhưng toan tính sai trật và dối trá đã khiến ông bà phải nhận lãnh hậu quả kinh khiếp ngay tức thì.
Thất bại của ông A-na-nia và bà Sa-phi-ra là sự nhắc nhở cảnh tỉnh cho mỗi đời sống chúng ta trên bước đường theo Chúa. Lời Chúa dạy rất rõ ràng và quyết liệt liên quan đến tội nói dối mà mỗi Cơ Đốc Nhân cần kiên quyết lánh xa:
1. Nói dối là con của ma quỷ (Giăng 8:44)
Ở đây, khi ông A-na-nia và bà Sa-phi-ra đồng mưu nói dối về việc dâng hiến của mình thì sứ đồ Phi-e-rơ bởi ơn Chúa nhận biết sự dối trá trong ông bà nên nghiêm khắc quở trách rằng: “Hỡi A-na-nia, sao quỉ Sa-tan đã đầy dẫy lòng ngươi, đến nỗi ngươi nói dối cùng Đức Thánh Linh, mà bớt lại một phần giá ruộng đó?” (câu 3, 9). Ông bà theo Chúa nhưng đã không để Chúa làm chủ nhưng để cho Sa-tan cai trị, chiếm hữu nên đầy lòng mưu mô và dối trá. Lời Chúa nói rằng: “Các ngươi bởi cha mình, là ma quỉ, mà sanh ra; và các ngươi muốn làm nên sự ưa muốn của cha mình. Vừa lúc ban đầu nó đã là kẻ giết người, chẳng bền giữ được lẽ thật, vì không có lẽ thật trong nó đâu. Khi nó nói dối, thì nói theo tánh riêng mình, vì nó vốn là kẻ nói dối và là cha sự nói dối” (Giăng 8:44). Những kẻ dối trá là con của ma quỷ. Thật đáng tiếc cho những ai mang danh tín đồ nhưng lại để ma quỷ dẫn dắt trong sự dối trá.
Vì vậy, xin Chúa nhắc nhở chúng ta trong điều này. Đức Chúa Trời là Đấng Chân Thần nên con cái Chúa phải sống ngay thẳng và chân thật. Nói không với lối sống dối trá cho dù nó không làm tổn hại hay ảnh hướng xấu đến ai. Nếu xét về một phương diện thì lời nói dối của ông A-na-nia và bà Sa-phi-ra không gây hại cho ai. Tuy nhiên, trước mặt Chúa dối là dối và kẻ nói dối là con của ma quỷ. Đức Chúa Trời không thể dung thứ cho. Vì vậy, chúng ta cần dứt khoát nói không với sự giả dối từ lời nói đến suy nghĩ và hành động. Nếu không, chính chúng ta cũng phải chịu trách nhiệm trong cách sống dối trá, thiếu chân thật của mình.
2. Lời nói dối không bao giờ giấu được
Ông A-na-nia và bà Sa-phi-ra khi mưu tính với nhau về sự việc này chắc hẳn nghĩ rằng sẽ không ai biết được toan tính của ông bà (câu 2). Tuy nhiên, vì xui theo xúi giục của ma quỷ khiến ông bà quên đi một điều đó là không gì có thể giấu được trước mặt Chúa. Đức Chúa Trời Toàn Tri, Đấng thấu suốt từ trong tư tưởng, suy nghĩ của con người. Chúa biết tất cả mọi việc kể cả những việc kín nhiệm hơn hết. Ông bà đã quên đi điều đó nên cứ ngang nhiên thực hiện việc dối trá và hậu quả sự việc đã bị bại lộ và phơi bày giữa Hội Thánh (câu 2, 11).
Đây là sự cảnh báo cho mỗi chúng ta trong nếp sống mỗi ngày. Chúng ta đi đâu, làm gì, suy nghĩ gì có thể không ai biết nhưng Đức Chúa Trời nhìn thấy và biết rõ tất cả. Trước giả Thi thiên 139:1-4 nhận biết rằng: “Hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài đã dò xét tôi, và biết tôi. Chúa biết khi tôi ngồi, lúc tôi đứng dậy; từ xa Chúa hiểu biết ý tưởng tôi. Chúa xét nét nẻo đàng và sự nằm ngủ tôi, quen biết các đường lối tôi. Vì lời chưa ở trên lưỡi tôi, kìa, hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài đã biết trọn hết rồi”. Và Lời Chúa trong Lu-ca 8:17 cũng bày tỏ rằng: “Thật không có điều gì kín mà không phải lộ ra, không có điều gì giấu mà chẳng bị biết và tỏ ra”. Có quá nhiều những lời nhắc nhở về điều này. Xin Chúa giúp chúng ta luôn ghi nhớ để rồi cẩn trọng trong nếp sống mỗi ngày để Chúa vui lòng về cuộc đời của chúng ta.
3. Kẻ nói dối phải chuốc lấy hình phạt nặng nề
Ông A-na-nia và bà Sa-phi-ra đã phải chuốc lấy sự trừng phạt cách nghiêm khắc của Chúa trong toan tính dối trá của mình. Ông bà đã không còn có cơ hội để sửa lại vì dám phạm thượng ngay tại nơi thờ phượng Chúa. Ông bà lần lượt từng người ngã chết ngay tức khắc dưới chân các sứ đồ và giữa Hội Thánh của Chúa (câu 5, 10). Lời Chúa khẳng định rằng: “Ai nói nghịch cùng Con người, thì sẽ được tha; song kẻ nói lộng ngôn phạm đến Đức Thánh Linh, thì không được tha đâu.” (Lu-ca 12:10). Số phận của ông bà đi đâu thì chắc chúng ta biết rõ. Thật tiếc cho hai con người cũng có lòng để dâng hiến nhưng không thuần khiết theo sự ngay thẳng chân thật của Chúa mà để sự gian dối làm đầu.
Chúng ta cần nhớ Đức Chúa Trời thánh khiết tuyệt đối không chấp nhận bất cứ một hành động giả dối nào đặc biệt là tại nơi thờ phượng Chúa (câu 2, 11). Cũng như Na-đáp và A-bi-hu chết ngay tức khắc khi bất tuân mạng lệnh Chúa mà dâng một thứ lửa lạ ngay trong nơi thánh (Dân số ký 3:4). Rồi vua Ô-xia bị phạt bịnh phung cho đến ngày qua đời vì ngang nhiên dâng hương trong đền thờ dù đã được cảnh tỉnh và nhắc nhở. Phạm thượng tại nơi thánh là ngang nhiên coi thường sự hiện diện của Chúa Thánh Linh là Đấng đang dẫn dắt và Đức Chúa Trời không chịu khinh dễ đâu. Chúa nhân từ sẵn tha thứ cho những ai ăn năn nhưng cũng là Đấng công bình để sửa phạt những ai cứng lòng. Xin Chúa dùng điều này để nhắc nhở và cảnh tỉnh chúng ta. A-men.
(Nhóm biên tập Chuyên mục Nhân vật Kinh Thánh)